Hữu Vy
Đàn Nam Giao và lễ tế Nam Giao – một trong những đại lễ quy mô nhất trong số các lễ hội cung đình triều Nguyễn

Đàn Nam Giao là công trình kiến trúc cung đình thiết yếu của các triều đại phong kiến Việt Nam. Đây là nơi triều đình tổ chức lễ tế Nam Giao (còn gọi là lễ tế Giao) để tế cáo Trời – Đất cầu quốc thái dân an, đất nước thái bình thịnh trị, vương triều trường tồn, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. eo quan niệm xưa, vua là “Tiên tử”, tuân theo mệnh Trời mà cai trị dân chúng nên chỉ có vua mới được quyền cúng tế Trời – Đất nhằm khẳng định vương quyền và tính chính thống của vương triều. Cũng với mục đích như vậy, sau khi lên ngôi vua, sáng lập vương triều Nguyễn, vua Gia Long đã cho xây dựng đàn Nam Giao tại xã Dương Xuân về phía nam kinh thành Huế (nay thuộc phường Trường An, thành phố Huế).


Bên ngoài khuôn viên đàn, nhà Nguyễn còn cho xây dựng các công trình phục vụ tế Giao. Về phía tây nam là Trai Cung (nơi vua giữ mình trong sạch trước khi tế Giao). Ở phía đông bắc là ần Trù (nhà bếp làm cỗ tế), sở Tể Sinh (nơi giết mổ các con vật cúng tế) và ần Khố (nhà kho cất giữ đồ tế). Ngoài ra còn có Quan Cư (nhà dành cho các quan tạm trú), Khoản Tiếp (nhà đón khách).

Cùng với việc dựng đàn tế, nghi thức tế Giao cũng được vua Gia Long và vua Minh Mệnh chuẩn định và cho ghi chép lại để đời sau y theo. Các điều khoản về đồ thờ cúng, lễ phẩm, lễ nhạc, mũ áo mặc khi tế Giao là “bích” (phiến ngọc tròn màu xanh có lỗ ở giữa, tượng trưng cho Trời) dùng để tế Trời và “tông” (ống ngọc màu vàng trong tròn ngoài vuông, tượng trưng cho Đất) dùng để tế Đất. Hàng năm, đến ngày tế thì bày ra, tế xong lại cất đi.
Khởi công vào đầu năm 1806, ắt đến cuối năm này, việc xây dựng đàn Nam Giao đã hoàn tất bởi vào ngày 27 tháng 3 năm 1807, lễ tế Giao đầu tiên tại đây đã được vua Gia Long cử hành. Kể từ đó cho đến năm 1885, đều đặn hàng năm nhà Nguyễn đều tổ chức lễ tế Giao vào trung tuần tháng hai hoặc tháng ba âm lịch. Từ đời vua ành ái (1890 – 1907), do điều kiện kinh tế eo hẹp nên đổi lại ba năm mới tổ chức một lần. Trước kỳ tế, Khâm iên Giám dự chọn ba ngày tốt dâng trình để bói chọn lấy ngày tốt nhất. Lễ phẩm, lễ nhạc… cũng được sửa sang, chuẩn bị vô cùng công phu, kỹ lưỡng. Con sinh (các con vật tế gồm trâu non, nghé đực, dê, lợn) được chăn nuôi riêng trong ba tháng bằng thức ăn tinh sạch, có lọng đỏ che mưa nắng và được tắm rửa hàng ngày. Ba ngày trước hôm đại lễ, vua ngự giá từ Đại Nội đến Trai Cung để trai giới. Đến giờ tế (thường diễn ra lúc nửa đêm về sáng), vua mặc long cổn, đội mũ bình thiên ngự giá từ Trai Cung ra Giao Đàn tế lễ. Các nghi lễ: đốt củi thui trâu, đón ần, dâng ngọc lụa, dâng con sinh, dâng rượu, ban phúc, cất dọn đồ cúng, tiễn ần, đốt văn tế lần lượt diễn ra trang nghiêm, kính cẩn. Tương ứng với mỗi nghi lễ, phường nhạc sẽ tấu hát một khúc nhạc riêng. Chứng kiến lễ tế Giao năm 1918, nhà báo Phạm Quỳnh (1892 – 1945) đã cảm động thốt lên: “Đương đêm thanh vắng, hơn một trăm con người đồng thanh hát lên, nghe rất cảm động, tưởng thấu đến tận trời cao đất thẳm, mà xa đưa tới đấng iên Hoàng Địa Kỳ cái tấm lòng thành của cả một dân một nước”. Từ khi khai tế đến khi tế xong mất khoảng 2 tiếng. Có thể nói, lễ tế Nam Giao là đại lễ quy mô nhất, tốn nhiều công của nhất trong số các lễ hội cung đình triều Nguyễn.

Ngày nay, đàn Nam Giao là một di tích lịch sử quan trọng trong Quần thể di tích cố đô Huế, đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1993. Do những ý nghĩa lịch sử văn hóa quan trọng cùng các giá trị nhân văn nổi bật mà lễ hội cung đình này đã được nghiên cứu và phục dựng từng phần kể từ Festival Huế 2004. Đây cũng là dịp để Huế quảng bá sâu rộng hơn nữa những tinh hoa văn hóa truyền thống của vùng đất Cố đô.







